Thứ Hai, 30 tháng 10, 2017

Giai đoạn phát triển định hướng phố hội chủ nghĩa ở vn

Bước đầu chúng tôi xin trao đổi một số điều lý luận cơ bản về quá trình sản xuất xác định phương hướng XHCN ở vn hiện giờ.

Chủ nghĩa phường hội dù đang khủng hoảng cả về lý luận và thực tế, nhưng với cách mệnh Tháng Mười Nga vĩ đại, nhân loại đã bước vào một giai đoạn phát triển mới - thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội trên khuôn khổ toàn quả đât. Với Thay đổi, vn đã vượt qua khủng hoảng, nắm bắt cơ hội, phát huy lợi thế, khai thác động lực mạnh bạo bước vào giai đoạn tạo ra mới nhằm sớm thi hành tiêu chí dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, hiện đại.

Tạo ra định hướng xã hội chủ nghĩa xã (XHCN) không qua công đoạn tư bạn dạng chủ nghĩa (TBCN) là một vấn đề lý luận cốt yếu trong lý luận cách mạng XHCN không chỉ đối với Việt Nam, mà cả với sự phát triển lý luận cách mạng XHCN ở các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.

Mấy chục năm qua, các học giả đã có hàng chục nghìn công trình, bài viết nghiên cứu xoay quanh chủ đề đoạn đường phát hành chủ nghĩa phố hội (CNXH). Các thành tựu nghiên cứu đạt được rất đa dạng, phong phú, tuy nhiên, những kết quả ấy lại rất khác nhau, và thường không đạt được sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu, kể cả những nhà nghiên cứu theo lập trường mác-xít. Đó là do mục đích nghiên cứu, phương pháp tìm hiểu, bí quyết tiếp cận, lập trường tư tưởng… khác nhau.

Hơn thế, phong trào XHCN vừa trải qua khủng hoảng toàn diện, nghiêm trọng cả về thực tiễn và lý luận. Đó là hệ thống lý luận xây dựng CNXH theo mô hình Xôviết trước đây là giáo điều, xơ cứng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan… đã thực sự lỗi thời, không phù hợp với những thay đổi mau lẹ của xã hội hiện đại. Đó là hệ thống CNXH hiện thực rơi vào khủng hoảng vừa đủ, tan rã ở châu Âu. Những nước XHCN còn lại đã mở cửa, đổi mới toàn diện và đã bước vào một giai đoạn phát triển mới không còn theo mô hình cũ.

Về mặt lý luận và thực tiễn cần phải nhìn nhận một cách khách quan, khoa học rằng sau hơn 30 năm cải cách ở Trung Quốc và 30 đổi mới ở Việt Nam, mô hình lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH mới mà nhị quốc gia này chủ trương và tiến hành hiện thực hóa đã khác rất xa mô hình CNXH Xôviết lúc trước. Tất nhiên, cả lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và Trung Quốc cơ bản là khác nhau, mặc dù về nguyên tắc và mục tiêu XHCN là tương đồng. 

Dù có nhiều điểm khác nhau nhưng, sau cải cách, đổi mới các nước phát triển theo con đường XHCN mới đã tạo ra sự phát triển kinh tế - xã hội được đánh giá là thần kỳ. Hình như, các nước Đông Âu và Liên Xô sau khi hệ thống XHCN ở châu Âu tan rã và không ít nước rơi vào khủng hoảng toàn diện cả kinh tế, chính trị và xã hội. Cho đến nay, mặc dù đã qua 30 năm, nhiều nước vẫn chưa đích thực trâḿt ra khỏi khủng hoảng. Mặc dù vậy, vào thời điểm hiện nay, dù nhiều quốc gia còn bất ổn, đời sống của người dân còn rất khó khăn nhưng hầu như đa số người dân ở các quốc gia này, không muốn quay trở lại xây dựng CNXH theo mô tuồng như trước đây. 

Rõ ràng, niềm tin của người dân về CNXH theo mô hình trước đây ở những quốc gia châu Âu đã từng xây dựng CNXH hiện thực ở thế kỷ XX đã bị tổn thương nặng nề. Chủ nghĩa xã hội như đã tồn tại trở thành nỗi ám ảnh trong đời sống thế giới. Chính điều này đặt ra cho những nhà nghiên cứu cần phải có cách tiếp cận mới với lý luận về CNXH của nghĩa Mác - Lênnin. Cần phải vận dụng sáng tạo lý luận ấy không chỉ bởi những điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, mà phải đặt nó trong bối cảnh mới của tiến trình lịch sử thế giới. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu không nằm trong chỉnh thể vận động và phát triển thông thường của toàn nhân loại.

Qua nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu các quan niệm của các nhà kinh điển, của các học giả mác-xít và ngoài mác-xít bao quanh vấn đề CNXH và đoạn đường XHCN ở các nước nhà theo mô hình Xôviết trước đây; tìm hiểu những nhân tố tác động đến quá trình tạo ra định hướng XHCN không trải qua quá trình TBCN; các nhân tố thời đại và nhân tố đặc thù của mỗi nước; thực trạng công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta 30 năm qua, bước đầu chúng tôi xin trao đổi một vài vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn sản xuất định hướng XHCN ở vn hiện nay. 

Thứ nhất, vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Nêu vấn đề quá trình sản xuất định hướng XHCN về mặt lý luận sẽ can dự tới quan niệm “quá độ lên CNXH, bỏ qua cách thức tư phiên bản chủ nghĩa”. Đây là một yếu tố lý luận hiện giờ đã được chắc chắn. Mày mò quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhân tố này trong khoảng khi xây dựng đến nay ta thấy đây là một điều lý luận căn bản nhưng cũng đã có phổ biến sự yếu tố chỉnh trong các thời kỳ cách mệnh không giống nhau.

Thật vậy, quan điểm của Đảng Cộng sản vietnam từ 1930 đến nay để tiến lên CNXH, đã có sự thay đổi căn bản: Từ “tiến thẳng lên CNXH”, đến “bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”, và hiện nay là “bỏ qua chế độ TBCN”. Cần làm rõ: có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) với tư cách là một chế độ xã hội được không ? Bỏ qua chế độ TBCN nhưng có sử dụng và phát huy những yếu tố nào của giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa?. 

Đặt vấn đề về mặt tư duy: bỏ qua chế độ TBCN có phải là sự khẳng định chế độ TBCN là chế độ xã hội xấu xa đã lạc hậu, không còn phù hợp với sự sản xuất của nhân loại, do đó cần phải “bỏ qua”, loại bỏ chế độ đó trong quá trình phát triển của lịch sử loài người hay không. Như vậy, có kiếm được thức đúng sự tồn tại khách quan, thế tất hiện nay của CNTB không? có phù hợp với sự phát triển tự nhiên của lịch sử không? và có tiếp tục gây ra sự kỳ thị, đối kháng, đối đấu giữa sự phát triển của Việt Nam hiện nay với phần còn lại của nhân loại là TBCN hay không? Có riêng biệt sự đi lại và tạo ra của Việt Nam bây giờ ra khỏi quỹ đạo phát hành chung của thế giới hiện giờ hay không? Đây là một yếu tố lý luận rất chủ yếu.

Với sự nhận thức phát hành của Việt Nam hiện nay là “thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa” nghĩa là chúng ta chỉ xác định con đường và đích đến của riêng vietnam, không đề cập, không khiến thương tổn đến sự tạo ra và mô hình phát triển của các đất nước khác, các cách thức chính trị khác. Thực tế là với toàn cầu hóa, cuộc cách mệnh kĩ nghệ 4.0 và hội nhập quốc tế, vietnam càng ngày càng tham gia một phương pháp vừa đủ vào đời sống phổ biến của thế giới và đã trở thành một thực thể tích cực có nhiều đóng góp cho tạo ra chung của khu vực và trái đất. 

Thứ nhì, về những điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội ở “các nước lạc hậu” trong thời đại ngày nay

Những điều kiện tiên quyết mà C. Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lê-nin đã dự đoán khả năng các nước lạc hậu phát triển lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN đó là:

- Chủ nghĩa tư bản đã phát triển lên tới đỉnh cao ở các nước tiên tiến; 
- Cách mạng vô sản đã thắng lợi ở Tây Âu; 
- Cách mạng vô sản ở Tây Âu kết hợp với cách mạng ở các nước lạc hậu; 
- Sự nêu gương và sự ủng hộ tích cực của cách mạng XHCN ở phương Tây đối với các nước lạc hậu đi theo con đường XHCN; 
- Những lực lượng tiên tiến của các nước “lạc hậu” chủ động thực hiện quá trình phát triển bỏ qua CNTB.

Rõ ràng, những vấn đề kiện tiên quyết mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, dự đoán khi đó tới nay hầu như thường còn nữa /hay không còn phù hợp. Dĩ nhiên, nhìn một bí quyết khách quan các nhân tố kiện này ta thấy, vào thời điểm đó, trong tư duy của các ông luôn thường trực tinh thần quyết liệt rằng, giữa CNTB và chủ nghĩa cộng sản luôn hiện diện trong tình trạng đương đầu sinh tử “một mất một còn”, kiểu như “chủ nghĩa xã hội là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư phiên bản”. Nghĩa là CNTB và CNXH luôn đối đấu và phủ định nhau. Trái đất được đặt trước chọn lựa độc nhất: hoặc CNTB, hoặc CNXH. Hệ lụy của tư duy ấy là đã chia trái đất thành nhì phe, hai chuỗi hệ thống đối đầu nhau, sắm mọi cách thức phá hủy nhau… đã dẫn tới chiến tranh lạnh, chạy đua thiết bị và sau cuối là góp phần dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn chuỗi hệ thống XHCN ở châu Âu nửa cuối thế kỷ XX. Trong cuộc đối đầu “một mất một còn” ấy CNXH hiện thực theo mô hình Xôviết về căn bản đã bị hủy hoại và CNTB với phần lớn khuyết tật của nó vẫn tiếp diễn sống sót và tạo ra. 

Vì lẽ đó, trong nhân tố kiện bây giờ, trong khi các điều kiện tiên quyết nêu trên không còn thì để tiến lên CNXH chúng ta phải làm cho thế nào?.

Trong bối cảnh thế giới hóa và các thành quả của cách mạng công nghệ 4.0 hiện thời, nhân loại đã ở một hiện trạng hoàn toàn mới. Có người gọi đó là một “quả đât phẳng”. Gần như mọi rào cản giữa các nước nhà, các khu vực căn bản đã được túa bỏ. Mọi đất nước sống sót trong trạng thái tùy thuộc lẫn nhau. Một sự kiện kinh tế, chính trị, bình yên, không gian… diễn ra ở một quốc gia có thể ảnh hưởng tới phổ biến đất nước khác. Đặc biệt sau khi chuỗi hệ thống CNXH ở châu Âu sụp đổ và chiến tranh lạnh kết thúc thì CNTB trở thành “nhân vật chính” của vũ đài trái đất và sự di chuyển, sản xuất của lịch sử trái đất hiện giờ nhìn chung bị chi phối bởi CNTB hiện đại.

Trong yếu tố kiện bây chừ, Việt Nam đã biến thành một nước nhà có quan hệ hữu hảo với hầu như các giang sơn trên thế giới; khác lạ có quan hệ đối tác kế hoạch với hầu như các cường quốc. Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực của đồng đội nhân loại mà còn là thành viên có vai trò và địa điểm cần thiết trong các thế chể, định giễu cợt, các liên kết kinh tế, xã hội mênh mông toàn cầu.

Trong bối cảnh mới, mặc dù chúng ta gặp nhiều gian khổ, thử thách nhưng rõ ràng chúng ta cũng có phổ biến vấn đề kiện và cơ hội phát triển hơn. Điều là ta phải đặt mình vào trong bối cảnh ấy, một cách khách quan và đề cao tính mục đích của thời kỳ tạo ra định hướng XHCN để ta có chiến lược, chủ trương, biện pháp và biện pháp hướng tới ngăn chặn nguy cơ, hạn chế thách thức, có phổ thông vấn đề kiện để tận dụng thời cơ và cơ hội hơn cho sự phát hành kinh tế - phường hội quốc gia. Vấn đề cần thiết là trong quá trình tạo dựng cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng chúng ta cần phải đề cao tính mục đích của sự sản xuất - đó là CNXH, trong khoảng sự đề cao mục đích, chúng ta phải nhân thức tận dụng nhiều vấn đề kiện, cơ hội khách quan, kịp thời nắm bắt cơ hội - tức thị tậu dụng cụ, phương thức, nguồn lực, động lực để sớm đạt được mục đích xây dựng chiến thắng CNXH ở vietnam.

Muốn vậy chúng ta phải ngày càng thực thụ trở thành một thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quả đât; cũng như thực thụ biến thành “bạn” của mọi tổ quốc, dân tộc trên thế giới. Đây chính là một vấn đề kiện “tiên quyết”, “buộc phải” để chúng ta thực hiện được các tiêu chí và nhiệm vụ của quá trình phát hành xác định phương hướng xã hội chủ nghĩa.

Thực là những yếu tố kiện khách quan và chủ quan cho sự phát triển của mỗi non sông ở những thời điểm nhất thiết chỉ hình thành tham gia đúng những thời gian đó, cho nên, những dự đoán lý luận dù có thần kỳ đến mấy cũng chẳng thể bao chứa hết. 

Thứ ba, xuất phát điểm của vn khi bước vào quá trình phát hành định hướng xã hội chủ nghĩa 

Khởi hành trong khoảng tình hình chi tiết, cảnh ngộ lịch sử cụ thể của mỗi non sông là nguyên tắc chỉ đạo cần thiết nhất. Đây cũng chính là một nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chỉ có lên đường từ thực tiễn mới nắm vững được thực trạng đời sống thị trấn hội, các khuynh hướng di chuyển cũng như quy luật đi lại của thực tại. Xa rời thực tế, chủ quan, duy ý chí, giáo vấn đề, quan liêu, bất chấp quy luật khách quan là những bài học đắt giá mà Đại hội VI của Đảng ta đã đưa ra danh sách.

Không phát xuất trong khoảng thực tiễn giang sơn sẽ ban hành những chỉ thị, quyết nghị không phù hợp với thực tại vì thế sẽ không thực hiện được hiệu quả ước muốn. Không khởi hành trong khoảng thực tiễn khi áp dụng những trải nghiệm quốc tế thường dập khuôn, máy móc, giáo yếu tố lạ lẫm đối với tâm can hoài vọng của dân chúng. Khi đó, người dân sẽ không tích cực nhập cuộc tham gia các chương trình, kế hoạch sản xuất tổ quốc.

chả hạn, đối với nước ta bây giờ, nhiều người do xa vắng thực tế, máy móc, giáo nhân tố, duy ý chí... nên khi phản hồi về phát xuất điểm của nước ta bắt đầu “quá độ lên CNXH, bỏ qua hình thức TBCN”, nghĩa là khi bước vào công đoạn sản xuất định hướng XHCN họ vẫn “nhất mực” chắc chắn khởi hành điểm của vn vẫn trong khoảng “một nước nông nghiệp lỗi thời”, “thực dân nửa phong kiến”, “chúng ta vừa bước ra từ chiến tranh và chịu hậu quả nặng vật nài của hai trận chiến tranh tàn tệ”... Với sự nhận biết như thế, rõ ràng chúng ta không thể có chủ trương, tuyến đường lối, chính sách sát hợp để lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc thay đổi trọn vẹn giang sơn theo định hướng CNXH hiện thời.

Thực ra, chúng ta đã “giã biệt” nước “nông nghiệp lỗi thời”, “thực dân, nửa phong kiến” gần 70 năm, chúng ta đã bước ra khỏi chiến tranh đã 40 năm, và chúng ta đã có 30 năm chấp hành chiến thắng công cuộc đổi mới hoàn toản giang sơn. Thực tiễn nước ta hiện thời, khác rất xa những năm trước năm 1945, những năm trước năm 1975. Sau 30 năm đổi mới chúng cũng đã khác rất xa năm 1986 khi non sông ta bước tham gia đổi mới. Thành quả của công cuộc đổi mới đã đưa nước ta biến thành một thành viên có vai trò, vị trí và có nghĩa vụ của cộng đồng quốc tế, đã trở thành tổ quốc có mức thu nhập nhàng nhàng... Cho nên, giả dụ không lên đường từ tình hình thực tại giang sơn thì rõ ràng chúng ta không thể nhận biết đúng thời cơ, thử thách, nguồn lực, động lực… và do đó sẽ không thể có được các chủ trương, trục đường lối, chính sách phù hợp để tạo ra quốc gia trong công đoạn hiện nay. Do đó, cũng sẽ không chấp hành được những nhiệm vụ và mục tiêu của giai đoạn sản xuất định hướng XHCN mà chúng ta đã đề ra. 

Thứ tư, vấn đề phát hành theo định hướng phường hội chủ nghĩa 

Sau 30 năm đổi mới thành tựu to lớn nhất, quan trọng nhất của chúng ta là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể khẳng định là đột phá về mặt lý luận và thực tiễn. Lý luận kinh tế thị trường xác định phương hướng XHCN đã soi sáng cho sự phát triển của đời sống kinh tế của nước ta 30 năm qua. Tất nhiên, xã hội là một cơ thể thống nhất và đồng bộ. Các lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình vận động và phát triển dù có thể có sự phát triển không đều nhưng về căn bản các lĩnh vực, bộ phận phải tương thích, đồng bộ và thống nhất với nhau phân thành một cục bộ hoàn chỉnh. Không có một thân thể phố hội hài hòa ổn định thì không thể phát hành bền vững được. 

Sự thành công khôn cùng thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta thời gian qua chỉ cho ta thấy rằng cần phải xác định đúng thời điểm hiện nay vn đang sinh tồn và tạo ra ở hiện trạng là thời kỳ phát triển định hướng XHCN. Đây không phải là cách thức miêu tả khác của “giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội” mà là sự nhận mặt thực trạng phường hội và thiên hướng di chuyển tất yếu của nó. Ai cũng nhân thức mọi sự đi lại phát hành đều là công đoạn quá độ trong khoảng tình trạng này sang tình trạng khác một cách thông thường. Xác định quá trình sản xuất xác định phương hướng XHCN tức là đề cao tính mục đích của sự phát triển. Nói phương pháp khác, sự sản xuất là thời kỳ vận động theo những quy luật khách quan nhưng có sự tham gia của yếu tố chủ quan để đạt đến mục đích đề ra. 

Thứ năm, vai trò chỉ đạo của Đảng Cộng sản vn 

Để thực hiện tiêu chí, nhiệm vụ của quá trình phát hành định hướng XHCN một nhân tố kiện tiên quyết có tính nguyên lý là phải kiên quyết giữ vững vai trò lãnh đạo độc nhất vô nhị của Đảng Cộng sản vn và phải kiên quyết đổi mới phương án lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Đảng Cộng sản cộng sản Việt Nam người đơn vị và chỉ huy mọi thắng lợi của cách mệnh vn hơn 85 năm qua. Vấn đề này đã được lịch sử khẳng định. Lịch sử cũng cho thấy vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản với cách mạng vn không phải bằng lý luận mà bằng chính thực tiễn đời sống.

Với lên đường điểm là một phường hội chưa trải qua công đoạn phát triển TBCN hội nhập vào sự sản xuất chung của nhân loại, nếu như theo sự tạo ra thông thường của quá trình lịch sử tự nhiên thì như đa dạng tổ quốc khác, chúng ta tiến lên CNTB là một lẽ phổ biến. Bên cạnh, CNTB sau hơn 200 sống sót mặc dù mang lại cho trái đất số đông thành quả nhưng cũng có những quá trình mờ ám phổ quát máu và nước mắt đối với tiến trình phát hành quả đât. Hình thức bóc lột, phân tầng thị trấn hội, phân hóa giầu nghèo, chiến tranh và tha hóa loài người là những vật phẩm tất yếu của chủ nghĩa tư phiên bản mà bất kỳ quốc gia nào đi theo con đường TBCN chẳng thể giảm thiểu khỏi. 

Dường như đó, thời kỳ bây giờ, phổ biến nước tư bản tạo ra đang đứng trước ngưỡng cửa của một thời đại mới, một hình thức thị trấn hội mới. ngừng thi côngĐây là thời đại của sự phát hành đỉnh cao của nhân loại. ngừng thi côngĐây không còn là chủ nghĩa tư phiên bản với đúng nghĩa của nó nữa. Có người gọi đó là xã hội hậu tư bản. Thực tế cho thấy, trong các nước tư bạn dạng sản xuất ở đỉnh cao bây giờ đã hình thành phần lớn nhân tố của chủ nghĩa cộng sản như các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác dự đoán. 

Với vn từ một tổ quốc đang phát hành với mức sống làng nhàng của nhân loại trong yếu tố kiện thế giới hóa và hội nhập quốc tế bây giờ sản xuất theo xác định phương hướng XHCN là hoàn toàn thực tế và đó là một thế tất khách quan. Bản chất, đây là một sự phát triển rút ngắn mà lịch sử cho thấy có nhiều dân tộc đã từng trải qua.

Vấn đề cốt lõi ở đây là chỉ có Đảng Cộng sản vn mới là người lãnh đạo giang sơn ta đi theo con đường XHCN. Bởi vậy, giữ vững vai trò chỉ huy của Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng CNXH ở vietnam là một yếu tố có tính nguyên tắc, một vấn đề kiện tiên quyết. Tuy nhiên, để giữ vững được nguyên lý này Đảng Cộng sản vietnam cần thi hành một số vấn đề cốt lõi sau: 

Một là, Đảng Cộng sản không phân chia quyền lãnh đạo giai đoạn xây dựng CNXH ở vietnam cho bất kỳ đội ngũ chính trị nào khác nhằm bảo đảm sự hợp nhất và tính nhất quán của công cuộc xây đắp và kiểm soát an ninh Tổ quốc XHCN; 

Nhì là, Đảng phải thay đổi toàn vẹn về đơn vị và phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước và phường hội.

Ba là, Đảng cần kiên quyết chấn chỉnh xây đắp đảng. Kiên quyết chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đảng viên nhất là đội ngũ chỉ đạo cao cấp; Cương quyết tranh đấu chống tham nhũng xây dựng lòng tin trong dân chúng; Kiên quyết giải tán các doanh nghiệp đảng hạ tầng suy thoái, mất sức chiến đấu; Cương quyết vứt bỏ những phần tử thái hóa, biến chất ra khỏi nhóm Đảng.

Bốn là, Cương quyết đấu tranh chống những thần thế phản động nội địa và quốc tế nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò chỉ đạo của Đảng. Kiên quyết chống “tình tiết hòa bình”, bạo loàn lật đổ, kiểm soát vai trò lãnh đạo của đảng, kiểm soát ổn định chính trị; 

Năm là, Mở mang quan hệ quốc tế, kiên quyết chống chọi bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước, bảo vệ lợi ích nước nhà, bảo đảm đời sống hòa bình cho quần chúng. #.

PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu (theoTin báo Cộng sản)


Có thể bạn quan tâm: maybomtangap

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét