Dưới đây là đáp án trắc nghiệm "Vị trạng nguyên có mối tình được cõi trần truyền tụng là ai?".
Câu 1. Trong 49 vị trạng nguyên của vn, có bốn người được xưng tặng là "Lưỡng quốc Trạng nguyên". Dĩ nhiên, “Lưỡng quốc Thám hoa” chỉ độc nhất vô nhị có 1 người. Ông là người nào?
Đáp án đúng mực là Phan Kính.
Phan Kính sinh năm Ất Mùi (1715-1761) tại quê có năng lực tài chính thấp hiếu học Vĩnh Gia, thị trấn Lai Thạch, thị xã La Sơn, trấn Nghệ An (nay là xã Song Lộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).
Năm 1743, trong kỳ thi Đình do đích thân Vua Lê Cảnh Hưng ra đề, ông đỗ “Đệ nhất giáp tấn sĩ cập đệ đệ danh” – tức thị đỗ đầu khoa thi với danh vị Thám hoa. Nguyên bởi vì Vua Lê đã lệnh không lấy danh vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, nên Phan Kính chỉ đỗ Thám hoa mà cũng được coi như là chủ tịch kỳ thi.
Trong những năm 1758–1761, trên vị trí Đốc đồng xứ Tuyên Quang kiêm tham vấn nhung vụ đạo Hưng Hóa, phổ thông lần ông đã thương thuyết với nhà Thanh, cho dựng lại cột mốc biên cương, đánh dấu chủ quyền lãnh thổ trên lục địa. Thán phục kỹ năng, đức độ của Phan Kính, Vua Càn Long đã tặng cho ông “Lưỡng quốc đình nguyên Thám hoa”, ban tặng áo cẩm bào vương triều có thêu chữ “ Thiên triều đặc tứ, Bắc Đẩu dị nam, nhất nhân di nhĩ” (Thiên triều đặc bí quyết, phía nam Bắc Đẩu, chỉ có một người thôi).
Năm 1761, giữa lúc tài năng của Ông đã nhộn nhịp nhất thì cái chết đột ngột đã để lại sự tiếc nuối thương muôn nghìn của quần chúng. #.
Câu 2. Người Việt độc nhất được quân Minh khiến cho lễ tế long trọng là vị nào?
Đán án chính xác là Hồ Nguyên Trừng.
Sử sách nhà Minh lưu lại, coi Ông là “Thần cơ thương pháo”, triều đình nhà Minh tôn vinh là “thần hỏa khí”, coi trọng Ông như một trong những sứ giả thánh thần của binh pháp. Sau này, trong các ngày lễ tế hoặc trước khi bắn đại chưng, quân Minh đều phải cúng tế Thần Công, và sau nghi tiết ấy là lễ tế sứ giả của thần thánh, tức chính là lễ tế Hồ Nguyên Trừng.
Câu 3. Theo dân dã, có vị trạng nguyên đi sứ 10 năm phi tần ở nhà vẫn hy vọng. Người có mối tình được thiên hạ ca tụng là…
Đáp án chính xác là Tống Trân.
Tương truyền, tham gia thời tiền Lý ở thị trấn An Đô, tổng Võng Phan, thị xã Phù Dung (nay là thôn An Cầu, phường Tống Trân, quận Phù Cừ) có nhà họ Tống tên là Thiện Công dòng dõi thi thư, nghèo túng nhưng rất khoan hòa nhân đức, sinh được một cậu con trai tuấn tú, đặt tên là Tống Trân.
Tống Trân lên 5 tuổi đi học, học một nhân thức mười, thiên văn địa lý đều thông tỏ. Năm 7 tuổi, Tống Trân vào kinh ứng thi, cả ba kì thi đều được hạng ưu, đỗ thủ khoa. Vua đánh giá tốt là “Quốc sĩ tướng tài trong nước chỉ có một bản thân Tống Trân không bạn nào sánh được”.
Sau khi vinh quy, Tống Trân kết hôn với Cúc Hoa, người phường Phù Anh cùng thị xã. Cưới được 3 04 tuần, vua sai Tống Trân đi sứ China. Qua nhiều lần thử tài văn chương, võ nghệ, vua Tàu càng khâm phục phong là “Lưỡng quốc trạng nguyên”.
Mười năm đi sứ, khi Tống Trân đi về thì Cúc Hoa đã bị ép lấy chồng khác. Tống Trân giả trang mua đến dò xét ý tứ, nhân thức cung phi vẫn trung thành với chính mình, Tống Trân đón nàng về, thê thiếp chồng sum vầy. Nhà vua biết chuyện cảm động phong cho Cúc Hoa là Quận phu nhân. Còn Tống Trân sau khiến cho Phụ chính đại nhẫn”.
Làm cho quan tới ngoài 60 tuổi, Tống Trân dâng biểu xin về, mở trường dạy học tại quê nhà, được 5 năm thì mất. Vua thương tiếc phong sắc “Thượng đẳng phúc thần”, sau lại gia phong “Thượng đẳng tối linh phụ quốc thượng tể đẩu Nam song toán Tống hoàng thượng”, và truyền cho dân làng lập đền thờ. Ở làng An Cầu hiện còn đền thờ Tống Trân.
Thiên hạ sau đã viết truyện Tống Trân - Cúc Hoa, một tác phẩm thơ Nôm dân dã nhiều người biết đến, ca tụng tài đức, ái tình và lòng chung thủy của Tống Trân- Cúc Hoa. Có người còn làm câu đối về Tống Trân, dịch nghĩa như sau:
Tám tuổi đỗ Trạng Nam, đã nổi tài sanh quà đất Việt
'Mười năm sang sứ Bắc, lại đem vận sự dõi đời sau'
Bây giờ, tại Văn Miếu Xích Đằng (Hưng Lặng) còn tấm bia ghi tên Tống Trân, bia này được lập tham gia cuối triều Nguyễn.
Câu 4. Vị trạng nguyên nào nhiều người biết đến nhờ bài văn về kế sách trị quốc, chống tham nhũng?
Đán án đúng mực là Vũ Kiệt.
Trong số những người đỗ Trạng nguyên dưới thời Lê Thánh Tông, nổi tiếng có Vũ Kiệt (1453-?), ông là Trạng nguyên thứ 4 của nhà Hậu Lê và là Trạng nguyên đứng thứ 13 trong danh sách các vị Trạng nguyên của nước ta.
Theo sử liệu, Vũ Kiệt quê ở làng Cửu Lặng, xã Im Việt, thị xã Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Cửu Im thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn (1472) đời Lê Thánh Tông. Do ngôi làng quê ông có tên Nôm là làng Vít nên dân gian quen gọi Vũ Kiệt là Trạng Vít (Trạng làng Vít).
Ngày mồng 7 tháng 4 năm Nhâm Thìn (1472), tại kỳ thi Đình, vua Lê Thánh Tông ra đề thi hỏi về sách lược đế vương trị nước. Bài văn sách thi Đình của Vũ Kiệt được chấm xuất sắc và được triều đình coi như một tuyệt bút nói về chính sách để trị nước, an dân và bài văn sách được lưu truyền khiến cho mẫu mực cho các sĩ tử sau này học tập.
Như về điều giáo dục để tập huấn và sử dụng thiên tài, ông cho rằng: “Thầy nghiêm thì việc học đạo mời được tôn kính. Bụng dạ đã mất trước khi khiến cho quan rồi, thì sau khi ra khiến cho quan còn khiến cho sao có được cái tiết toá và phong độ.
Cái thói quen bị kẻ sĩ buông trôi theo dòng tục lệ như thế, thì còn gì khi họ đạt được danh vị ở triều đình, nên ít người chịu theo lễ nghĩa”.
Vũ Kiệt vạch ra thói hư của quan lại và thể hiện sự quan trọng “sự thành công của non sông là xuất hành trong khoảng sự trung thực hay gian tà của các quan”.
Để giải quyết những thói hư tật xấu, ông yêu cầu như sau: “Thần mong thánh thượng hãy tuyển chọn lựa những người công minh trong sạch và thật thà, lấy danh vị trao cho trọng trách. Ra lệnh cho quan ngự sử kiểm soát, động viên biểu dương để thấy được những quan liêm khiết của họ.
Ông quan nào thuộc hạng ô lại và cũng lấy việc ấy để nêu cái làm nhục của họ để nhân tố trằn, tâu lệnh đúng đắn rõ ràng. Giả dụ quả thật họ là người thanh liêm thì ân thưởng, khuyến mại và quan trưởng cũng được ban thưởng.
Nếu quả thật họ là kẻ tham ô thì hình phạt không lượng thứ và quan trưởng cũng tuỳ theo đó mà xử phạt. Làm tương tự thì loài người sẽ tốt lên, thói tham sẽ ngăn chặn được. Quan lại thất đức, việc ăn ăn năn lộ được đưa ra ánh sáng thì thói tham lam chẳng thể tạo ra mãi được”…
Tăm tiếng của ông không chỉ được khắc trên bia Tấn sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long mà còn được khắc trên bia đá dựng ở Văn Miếu Bắc Ninh.
Câu 5. Trong 4 vị lưỡng quốc trạng nguyên, có một vị khi đi sứ sang Trung Quốc đã trả lời một câu đố được mệnh danh là “câu đố chết người”. chậm tiến độ là vị nào?
Đán án chính xác là Mạc Đĩnh Chi.
Năm 1308 đời vua È cổ Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, mừng vua Nguyên Vũ Tông mới lên ngôi [a]. Đó là lúc mới 20 năm sau chiến tranh chống quân Nguyên thứ 3 (1287-1288), sứ bộ bị nắn gân cốt rất mạnh.
Đương nhiên trong hoạt động bang giao ông đã tỏ rõ khí phách và kĩ năng của chính mình. Hoạt động và tài năng văn học của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng.
Sau đó năm Nhâm Tuất (1322) ông đi sứ lần 2.
Khi sứ bộ bái biệt vua Nguyên để về nước, thì họ ra câu đố hiểm hóc: "Có một chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và phụ thân bản thân (quân, sư, phụ) bơi tới giữa sông chẳng may chạm mặt sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai?".
Tham gia giai đoạn đó, trả lời sai sẽ bị tội phanh thây, chém đầu hoặc lưu giữ lại, dẫn tới nước Việt mất tài năng. Nhưng ông đã giải đáp:
"Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải nhanh nhẹn nhẩy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần gặp người nào trước thì thần cứu người yêu trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay thân phụ chính mình".
Cuối cùng ông được ra về.
Phương Chi
Xem thêm: bomtangap
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét