- Luật cần quy định rõ bổn phận của các công ty phòng chống tham nhũng phải điều tra rốt ráo đối với các tài sản mờ ám, để xác định xem chúng có phải do tham nhũng có được không.
Trong công cuộc phòng, chống tham nhũng của ta hiện thời, Dự luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) có thể được xem là dụng cụ hiệu quả nhất. Do đó, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) cũng như cử tri cả nước đặt rất nhiều kì vọng tham gia đạo luật này. Đây không chỉ là nỗ lực một chiều, mà còn là bổn phận mà giang sơn đã cam đoan với Liên hiệp quốc (LHQ).[1]
Hiện thời, điểm vướng mắc lớn nhất của dự luật có nhẽ quay quanh việc thiếu vắng một giễu cợt tài chi tiết can dự đến của nả của cán bộ mà không được kê khai, hoặc kê khai không hoàn toản, hoặc không chứng minh được nguyên cớ (tài sản u tối). Rộng rãi ĐBQH ví von nhân tố này như tước đi hàm răng của “con hổ” là dự luật PCTN.
Một con số được viện dẫn ra tại nghị trường, đó là sau 10 năm thực hiện Luật PCTN, chúng ta chỉ mới thu hồi được 4.500 tỷ đồng từ của nả tham nhũng trên tổng số 60.000 tỷ đồng thiệt thòi. Cử tri rất bức xúc và đợi mong một sự “đột nhiên phá” trong đạo luật sửa đổi lần này.
Những lo sợ này là dễ nắm bắt khi liên tục có những thông tin về biệt phủ hoa lệ, của nả “khủng” mà nguồn gốc lại không dễ dàng thuyết phục dư luận. Tất nhiên, cần phải khẳng định rằng bất kỳ giải pháp hay sự đột nhiên phá nào cũng đều phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng tuyệt đối nền pháp quyền. Đây song song cũng là một nguyên tắc mà Liên hiệp quốc (LHQ) đòi hỏi các non sông phải vận dụng.
Ảnh minh họa: Tuổi xanh |
Hiểu về “thu hồi của cải”
“Thu hồi của cải (có được trong khoảng tham nhũng)” là một trong những nội dung mà Công ước chống tham nhũng của Liên phù hợp quốc (UNCAC) yêu cầu các tổ quốc phải đưa vào luật nội địa của chính mình (Chương V). Nhưng đây là một thuật ngữ pháp lý dễ bị nắm bắt lầm. Cần phải nắm bắt “thu hồi tài sản” là việc Nhà nước tịch thu của cải mà quan chức có được từ hành vi tham nhũng. Ví dụ, một cán bộ nhận ân hận lộ 10 triệu đồng, nếu Nhà nước chứng minh được hành vi nhận hối lộ đó thì có quyền tịch thâu số tiền. Việc chứng minh này phải trên cơ sở vật chất luật định từ một toà án độc lập và có thẩm quyền.
Dường như điều gây tranh biện hiện giờ lại can hệ tới việc giải quyết các tài sản u tối, là các tài sản mà cán bộ không chứng minh được xuất xứ, khai báo sai, hoặc khai báo thiếu. Những của cải này có thể là của nả có được do tham nhũng, nhưng việc ngờ vực tương tự là không đủ để bắt đầu thu hồi của nả theo quy định của Dự thảo Luật hiện giờ.
Pháp luật tương tự tuy gặp phổ quát phản ứng của dư luận nhưng chẳng phải là không có lý do. Thực tế thì tài sản u tối chưa hẳn là tài sản do tham nhũng có được để vận dụng các biện pháp của luật PCTN. Tài sản mờ ám còn có thể đến trong khoảng những hành vi bất hợp lí khác, như trốn thuế, gian lậu thương nghiệp, buôn lậu, mua sắm hàng hoá bị cấm… Đây là những tù túng có chế độ giải quyết hoàn toàn khác với tội nhân tham nhũng.
Trong vài tù nhân kể trên, Chẳng hạn như ăn gian thương mại hay lường đảo, việc giải quyết tài sản đen tối không chỉ giới hạn trong việc tịch thu, sung công quỹ Nhà nước, mà còn phải tính tới việc bồi thường dân sự cho các bị hại. Tương tự, ví như nhanh nhẹn trưng thu tài sản tối tăm có thể dẫn đến những hệ luỵ pháp lý khó khăn khắc phục về sau.[2]
Một nguyên nhân khác đó là nhịn nhường như chúng ta đang có nhầm lẫn khái niệm “thu hồi tài sản” (asset recovery) và “tịch thu của nả” (asset confiscation). Việc thu hồi của cải cốt không hề để bù đắp những thiệt thòi của Nhà nước và nền kinh tế do tham nhũng gây ra, mà là để trao trả nó lại cho chủ sở hữu hợp pháp của nó và bồi hoàn cho các nạn nhân. Dự thảo Luật PCTN cũng đã có đề cập tới các chắc chắn của vietnam xoay quanh vấn đề thu hồi của nả theo UNCAC, luật pháp tại Chương IX.
Giả dụ như chơi có một phiên toà công khai, rõ ràng, với thứ tự tố tụng sáng tỏ và công bằng thì rất không dễ dàng để có thể xác định đúng khách hàng nào là chủ sở hữu hợp pháp của khối của cải tối tăm, hoặc bạn nào là nạn nhân của tù túng tham nhũng. Bởi thế, việc vi phạm bổn phận khai báo tài sản của cán bộ ko phải là nguyên do hợp lý lẫn hợp lí để bắt đầu thu hồi của cải.
Kinh nghiệm các giang sơn khác cũng cho thấy việc xử lý vi phạm trong khai báo tài sản hiện chỉ dừng ở nhị level: phạt tiền hoặc giải quyết kỉ luật, hành chính.[3] UNCAC cũng nêu rõ là tuỳ vào pháp luật nội địa mà các đất nước có thể vận dụng những giải pháp chế tài phù hợp với hành vi vi phạm nghĩa vụ công khai của nả, chứ không nhắc gì đến việc thu hồi của cải (Yếu tố 52.5 – UNCAC). Trái lại, (Vấn đề 53 và 57 – UNCAC).
Tuy nhiên, của nả đen tối là một chỉ dấu cần thiết để nghi vấn một cán bộ có biểu lộ tham nhũng hay không. Nhưng không thu hồi của cải ám muội không có tức là bao che hay nhẹ tay với tham nhũng. Có rất nhiều nhân tố khác cần phải thực hiện khi một khối của cải u tối được nhận thấy.
Chính cho nên, Luật PCTN cần quy định rõ nghĩa vụ của các tập đoàn phòng chống tham nhũng phải dò la rốt ráo đối với các của nả bất minh, để xác định xem đây có phải là của cải do tham nhũng có được hay không. Đấy mới chính là chủ chốt của công cuộc phòng chống tham nhũng, và bảo đảm được tính pháp quyền.
Bên cạnh đó, dân chúng cần được tiếp xúc với hồ sơ kê khai tài sản của cán bộ để việc giám sát được sáng tỏ hơn. Việc tôn trọng pháp quyền là cần thiết trong công cuộc phòng chống tham nhũng, vì chẳng thể lấy một cái sai (vi bất hợp pháp quyền) để trừng trị một cái sai khác (tham nhũng). Tương tự sẽ khiến cho những cố gắng đó mất tính chính danh. Cũng như hướng dẫn mà LHQ đã đưa ra trong UNCAC, kế bên sự nghiêm minh của qui định, thì pháp quyền, liêm chính và minh bạch chính là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng, chống tham nhũng.
Lê Nguyễn Duy Hậu
>> Mời độc giả theo dõi tiếp các bài sau:
Đón đọc bài 2: Kiểm soát an ninh “người thổi còi” trong chống tham nhũng.
--------
[1] Từ năm 2003, Liên Hiệp Quốc đã chuẩn y Công ước về chống tham nhũng (UNCAC) và Việt Nam là một trong những thành viên sớm nhất kí kết công ước này. Việc duyệt của Việt Nam có phần đủng đỉnh hơn khi đến tận năm 2009 thì Quốc hội mới chính thức duyệt UNCAC. Theo cam đoan trong UNCAC thì vn phải thực thi những biện pháp phòng chống tham nhũng hiệu quả theo khuyến nghị của Liên Hiệp Quốc.
[2] Cựu thủ tướng Iceland Sigmundur Davíð Gunnlaugsson đã phải từ nhiệm khi Panama Papers bóc trần việc ông không trung thực trong khai báo của cải. Những của cải khuất tất này của Gunnlaugsson được cho là có được từ hoạt động trốn thuế chứ chẳng phải do tham nhũng.
[3] Tại Philippines, cán bộ cung cấp tin tức về tài sản sai hoặc không giải thích được nguyên do tài sản có thể bị xử lý kỉ luật, buộc nghỉ việc, phạt tiền, thậm chí là khởi tố hình sự (OECD.org).
Câu hỏi khó từ việc truy nguyên của cải bất minh
Vì sao không truy nguyên căn nguyên của cải để tịch thu những tài sản không được giải trình có lí? Đây là thắc mắc rất lớn và cũng rất khó khăn cho việc đưa ra phương án giải quyết.
Giã từ phủ, của nả khủng của quan chức bàn về giữ vững doanh thu
Số liệu chính thức của tổ chức nhà nước về tỷ trọng thu hồi của cải trong khoảng các vụ án tham nhũng là quá thấp do có nguyên thánh thiện sự yếu kém của công tác giữ vững doanh thu.
Chuyên gia ‘mổ xẻ’ của nả ‘khủng’ của bà Hồ Thị Kim Xoa
“Nếu bà Xoa là đại diện cho vốn Nhà nước tại công ty thì câu chuyện ở đây rất đáng bàn cho ra nhẽ”.
Liệu có tiếp diễn mất tiền khi đấu giá tài sản nhà nước?
Mặc dù chúng ta đã có chủ trương cũ kĩ phần hóa đơn vị nhà nước và đã có Luật Chứng khoán, song ông Gia Hảo vẫn không khỏi run sợ trước thắc mắc: liệu có tiếp tục mất vốn nhà nước nữa không, khi đấu giá của nả công?
Kê khai của nả rồi đóng dấu mật thì để khiến gì
Dự án Luật Phòng, chống tham nhũng đang được lưu ý sửa đổi. Giữ vững của cải của quan chức là nhân tố trọng điểm được bàn luận trong lần sửa đổi này.
Có thể bạn quan tâm: maybomtangap
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét