Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2017

Khảo sát chất lượng giáo dục: Gian khổ bước bắt đầu

Do những sức ép ngày càng tăng về trách nhiệm giải trình và hiệu quả đào tạo trong giáo dục đại học trên quả đât trong suốt hơn ba thập kỷ qua, khảo sát chất lượng (KĐCL) đã dần trở thành khí cụ bảo đảm chất lượng bình thường ở phổ biến chuỗi hệ thống giáo dục kể cả sản xuất và chưa phát hành.

Không đứng ngoài khuynh hướng này, sau khi thí nghiệm, vn đã đưa KĐCL thành một đòi hỏi đề xuất đối với các trường đại học và cao đẳng. Đương nhiên, cho tới nay, sau 12 năm, các cơ quan hữu trách vẫn chưa hoàn thành chu kỳ kiểm tra thứ nhất trong toàn chuỗi hệ thống.

Một thiên hướng thế giới

KĐCL được định tức là “công đoạn một tổ chức chính phủ hoặc tư nhân đánh giá chất lượng của toàn thể cơ sở giáo dục đại học hoặc của một chương trình giáo dục chi tiết nhằm chính thức công nhận cơ sở hoặc chương trình đã đáp ứng những tiêu chuẩn hoặc chỉ tiêu tối thiểu nào đó do đơn vị bình chọn đặt ra” (Vlăsceanu, Grunberg et al. 2007, pp. 25).

Lên đường trong khoảng Hoa Kỳ trong khoảng cuối thế kỷ 19, KĐCL có sức lan tỏa mạnh bạo ra khắp trái đất như một dụng cụ đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. Phần nhiều các đất nước mở đầu triển khai KĐCL từ khoảng giữa những năm 1990. Trong số những nước sớm đưa KĐCL vào sử dụng có các nước ở khu vực Đông Âu như Albania, Bulgaria, Hungary, và Romania. Những giang sơn có nền giáo dục sản xuất ở châu Âu như Hà Lan, Bỉ, Đức cũng đã dùng KĐCL trong khoảng phổ thông năm nay. Các nước Mỹ La-tinh và vùng Vịnh như Oman, Kuwait, Qatar, Ả-rập Saudi, Chile và các nước châu Á không đứng ngoài thiên hướng này.

Ở khu vực châu Á và châu Á Thái Bình Dương, KĐCL xuất hiện ở khắp mọi nơi từ Australia, Nhật Phiên bản, Hàn Quốc, TQuốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Brunei, Lào và Campuchia. Khác biệt, khu vực Đông Nam Á đã sản xuất chuỗi hệ thống KĐCL riêng được biết đến với tên gọi AUN-QA bỏ ra cho các trường đại học trong khu vực. Ở khu vực châu Phi, Kenya và Nam Phi cũng đã dùng KĐCL.

Đối với các nhà nghiên cứu và thực hành đảm bảo chất lượng giáo dục đại học trên quả đât, KĐCL là công cụ nhằm tăng nhanh trách nhiệm giải trình của các hạ tầng giáo dục đại học, và ảnh hưởng và hiệu quả của nó đối với chất lượng giáo dục đại học còn chưa được khẳng định. Dù được chung rộng rãi, công cụ này gặp mặt phổ quát chỉ trích do những hệ quả tiêu cực mà nó gây ra. ví dụ, ở đa dạng nước sản xuất, KĐCL vấp phải sự phản đối của giới học thuật, với những kết tội rằng dụng cụ này củng cố sự rập khuôn và xúc tiến văn hóa ứng phó, vốn được cho là không bổ ích cho cải tiến và nâng cao chất lượng. KĐCL cũng bị cho là dụng cụ lồng cồng, mang nặng tính hành chính, khiến cho tệ quan liêu thêm nặng nài nỉ. Mặc dù gặp gỡ rộng rãi chỉ trích, KĐCL vẫn đang là dụng cụ hoàn chỉnh nhất về trật tự cũng như khuông pháp lý và chưa hề có khí cụ thay thế tiềm năng. Tức là, bất kể những bất cập của KĐCL, chính phủ các nước vẫn phải phụ thuộc KĐCL để điều hành chất lượng giáo dục đại học. Dù thế, cần lưu ý rằng, tập đoàn chức trách ở các nước như Mỹ, Australia, Hà Lan đều hăng hái rà soát, đánh giá nghiêm ngặt chuỗi hệ thống KĐCL của họ để liên tục vấn đề chỉnh, giải quyết những bất cập của hệ thống này và ngày càng hoàn thiện nó.

vn: Vẫn loay hoay trong chu kỳ đầu

Sau khi Cục Khảo thí và Khảo sát chất lượng giáo dục, Bộ GD-ĐT ra đời tham gia năm 2003, KĐCL đã được đưa vào thí điểm trong giáo dục đại học Việt Nam trong khoảng năm 2005 như là dụng cụ điều hành nhà nước đối với chất lượng giáo dục đại học. Chương trình thử nghiệm KĐCL đến năm 2009 đã khai triển được một khâu cần thiết là bình chọn ngoài với 40 trường đại học nhiều phần nằm trong tốp đầu. Kết quả đáng kể nhất của chương trình này là đã phát triển được bộ mục tiêu bình chọn và xây dựng toàn thể thứ tự KĐCL cơ sở vật chất giáo dục đại học với sự giải đáp của các chuyên gia KĐCL Hà Lan, có tham khảo chuỗi hệ thống KĐCL của Mỹ và Hà Lan.

Tiếp đó, từ năm 2014 tới đầu năm 2016, Bộ GD&ĐT đã xây dựng bốn trọng điểm KĐCL được cho là chủ quyền. (Ở các hệ thống KĐCL thuộc các nước sản xuất, từ ‘chủ quyền’ này được nắm bắt là kĩ năng bình chọn và ra quyết định KĐCL mà không chịu tác động hay áp lực trong khoảng bất kỳ bên nào, dù là chính phủ hay cơ sở vật chất giáo dục). Trong số bốn trung tâm nói trên, ba trung tâm được đặt tại Đại học Non sông ở Hà Nội và TP.HCM, và ĐH Đà Nẵng; một trung tâm trực thuộc Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng vn. Bộ GD&ĐT cũng đặt ra luật pháp về việc đào tạo và cấp chứng chỉ khảo sát viên. Đến nay, các trung tâm đã công ty rộng rãi khóa huấn luyện khảo sát viên, cùng lúc kiếm được hoàn thành thủ tục của các trường và bắt đầu đánh giá ngoài. Tuy vậy, với số lượng xấp xỉ 450 trường đại học và cao đẳng, chưa kể khối trường nghề trực thuộc sự quản lý của Bộ LĐTB&XH, bốn trung tâm này không đủ năng lực đáp ứng ý định KĐCL toàn bộ các trường.

Trong giai đoạn trong khoảng năm 2009, sau khi xong xuôi thể nghiệm quá trình 2, tới năm 2016, đa số các trường đại học và cao đẳng đã hoàn thành tự đánh giá và nộp lên tiếng tự đánh giá cho Bộ GD&ĐT trong thiên nhiên có thêm trường nào được đánh giá ngoài, đồng nghĩa với việc không được khảo sát.

Những lờ đờ trễ kéo dài khó giải thích trong việc khai triển hệ thống KĐCL quốc gia khiến cho đòi hỏi các trường đại học và cao đẳng đề xuất phải KĐCL theo Luật Giáo dục (2005 và 2009) trở nên cách thức. Sở dĩ nói tương tự là vì khi các tập đoàn hữu trách chưa triển khai bình chọn hết một vòng các trường trong chuỗi hệ thống, thì không thể áp dụng chế giễu tài đối với những trường trì hoãn hoặc lảng hạn chế KĐCL. Bất kể sự chậm rãi trễ này là do duyên cớ gì, nó đã khiến suy giảm đáng kể niềm tin tham gia chính sách cũng như sự hăng hái và tích cực tham gia KĐCL của các trường.

Nhì mặt của KĐCL

Cần xem xét rằng KĐCL vốn là công cụ mang tính áp đặt trong khoảng tổ chức điều hành nhà nước xuống các cơ sở giáo dục. Hơn nữa, do chế độ quản lý tập trung và văn hóa tuân hành vẫn đang yếu tố chỉnh hành vi doanh nghiệp, sự đổi mới trong hoạt động đảm bảo chất lượng của các trường về căn bản là do ép buộc nhiều hơn là tình nguyện. Tức là, các trường buộc phải tham gia KĐCL và tuân thủ những tiêu chuẩn KĐCL. Quá trình tuân thủ này giúp các ở dọc đường hỏi được gần như vấn đề mới về quy cách quản lý và doanh nghiệp nhà trường. Nhưng mặt khác, việc học hỏi và cải tiến nhà trường cũng bị giới hạn trong phạm vi các tiêu chuẩn, chỉ tiêu mà tổ chức KĐCL đặt ra. Theo đánh giá về KĐCL ở các nước khác, việc học hỏi để cải tiến này thường chỉ xảy ra chủ yếu trong chu kỳ khảo sát đầu tiên; tác động này ở các chu kỳ tiếp theo suy giảm đáng kể.

Yếu tố quan trọng là KĐCL chỉ là yếu tố kiện chứ không nghiễm nhiên dẫn tới việc nâng cao chất lượng tập huấn. Bình chọn trong KĐCL là bình chọn ‘sự thích hợp với tiêu chí’ (fitness for purpose), chứ chẳng hề đánh giá chất lượng.Vì vậy mặc dù đa số các trường đại học và cao đẳng được KĐCL cũng không có nghĩa chúng ta đã đảm bảo được hay nâng cao chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam.

Phiên bản thân KĐCL cũng đã và đang phải trải qua chu kỳ PDCA (Plan-Do-Check-Act) trong điều hành chất lượng với những vấn đề chỉnh cả về thiết kế, bề ngoài, quy trình để giải quyết những bất cập.Ví dụ, Hà Lan mở màn khai triển KĐCL năm 2003, trước vn nhị năm, nhưng chỉ ba năm sau họ đã kết thúc KĐCL toàn hệ thống (dĩ nhiên diện tích chuỗi hệ thống của họ nhỏ tuổi hơn vietnam). Và sau hai chu kỳ KĐCL cục bộ các trường đại học và cao đẳng, Hà Lan đã có những điều chỉnh căn bản để cải tiến chuỗi hệ thống KĐCL của họ.

Còn với Australia, trước đó họ không sử dụng KĐCL mà khai triển một khí cụ gần giống: giám định chất lượng (audit). Năm 2011, khi mở đầu khai triển KĐCL, họ đã có những nhân tố chỉnh đáng chú ý so với chuỗi hệ thống KĐCL nguyên mẫu của Mỹ. Ngay ở nước Mỹ nơi khởi nguồn của KĐCL, liên tiếp trong đa dạng năm qua, họ cũng có không ít sửa đổi để giải quyết những bất cập của dụng cụ này.

Còn chuỗi hệ thống KĐLC mà chúng ta đang nỗ lực xây dựng ngày bữa nay về căn bản vẫn dựa trên phiên bản mô hình từ 10-15 năm trước. Cần phải nhấn mạnh rằng, khi vietnam bắt đầu triển khai KĐCL năm 2005, dù lờ đờ hơn một tí so với các nước khác nhưng chẳng phải là quá trễ. Dĩ nhiên, tới thời điểm này, sau 12 năm, chúng ta vẫn đang xoay xở kiểm định chu kỳ thứ nhất đối với các trường đại học và cao đẳng, một tín hiệu cố nhiên về sự tụt hậu.

Kiểm định chất lượng giáo dục: Nhìn từ góc độ kỹ thuật

Kiểm tra chất lượng giáo dục: Nhìn trong khoảng góc độ khoa học

Phân tích hệ thống khảo sát chất lượng (KĐCL) giáo dục đại học vietnam trong khoảng góc độ tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm định cũng như quy trình và cơ chế triển khai, có thể thấy rõ sự khiếp sợ và thiếu bình ổn của chuỗi hệ thống này.

Kiểm định chất lượng giáo dục: Quốc gia hay quốc tế, trường hay chương trình?

Kiểm định chất lượng giáo dục: Giang sơn hay quốc tế, trường hay chương trình?

Các trường nên chủ động nhập cuộc KĐCL quốc tế theo hướng nào cho hiệu quả?

Theo Đỗ Thị Ngọc Quyên/Tia Sáng

Tác giả bài viết là nhà tìm hiểu giáo dục độc lập, tốt nghiệp thạc sỹ chuyên lĩnh vực “Hiệu quả đào tạo và Cải tiến bến xe” tại Đại học Groningen, Hà Lan, và lấy bằng tiến sỹ Tìm hiểu Giáo dục đại học tại Đại học Melbourne, Australia. Chị từng đảm trách địa điểm Giám đốc Trọng điểm Bảo đảm Chất lượng giáo dục thuộc trường Đại học Kinh tế, ĐH Đất nước Hà Nội, và Trưởng phòng Nghiên cứu giáo dục, Viện Bảo đảm Chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngành tìm hiểu chuyên sâu bao gồm: Mô hình hiệu quả giáo dục trong giáo dục nhiều và giáo dục đại học; Bảo đảm chất lượng: kiểm tra, benchmarking và xếp hạng; Quản trị đại học; M&E – Đánh giá và Giám sát.

Xem tại: bomtangap

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét